Anh ngữ không có những hình thức động từ đặc biệt để phát huy sự mong ước (wishes). Có một vài trường hợp người ta dùng bằng thái cách (subjunctive mood) để phát biểu sự mong ước như:
God save the Queen!
(Xin Thượng đế phù hộ cho Nữ Hoàng!)
Long live the Queen!
(Nữ Hoàng muôn năm!)
God bless you!
(Xin Thượng Đế phù hộ cho anh)
Grammar be hanged!
(Văn phạm đáng đem treo cổ!)
Người ta cũng dùng bằng thái cách với may:
May God bless you!
(Xin Thượng Đế phù hộ cho anh!)
May you have a long and happy life!
(Xin cầu chúc cho anh trăm năm hạnh phúc!)
Much good may it do you!
(Mong rằng điều đó sẽ giúp cho anh nhiều!)
Người ta cũng có thể phát biểu sự mong ước bằng cách động từ hope và trust dẫn theo một mệnh đề phụ bắt đầu bằng that trong đó có may hoặc might nếu câu nói có phần trịnh trọng. Còn nếu câu nói không trịnh trọng lắm, thì người ta dùng will trong mệnh đề phụ. Thí dụ:
I trust that this arrangement may (hoặc will nếu câu nói ít trịnh trọng) meet with your approval.
(Tôi mong rằng sự sắp xếp này sẽ được anh chấp thuận)
He trusted that the arrangement might (hoặc would nếu câu nói ít trịnh trọng) meet with our approval.
(Hắn mong rằng sự sắp xếp đó sẽ được chúng ta chấp thuận)
I hope he may succeed (Nếu ít trịnh trọng thì nói I hope he succeeds hoặc will succeed)
I hope he might succeed (ít trịnh trọng: would succeed)
Trong khi nói chuyện thân mật, người ta có thể dùng mệnh lệnh cách (imperative mood) để phát biểu sự mong ước:
Have a good time!
(Chúc anh vui vẻ!)
Enjoy yourself!
(Chúc các anh vui vẻ!)
Trường hợp trên đây, nếu nói “May you have a good time” hay “May you enjoy yourselves” thì câu nói trở thành trịnh trọng, mất tính cách thân mật.
Động từ wish cố nhiên cũng được dùng để phát biểu một điều mong ước. Nó dẫn theo một mệnh đề phụ bắt đầu bằng that (cũng gọi là that-clause) nhưng chữ that này thường được hiểu ngầm. Nếu sự mong ước nói về thời hiện tại hoặc tương lai, thì người ta dùng Past Tense trong mệnh đề phụ. Nếu sự mong ước là một điều đã không thực hiện hoặc đã không thể thực hiện được trong quá khứ, thì người ta dùng Past Perfect Tense trong mệnh đề phụ.
Thí dụ các bạn hãy so sánh mấy câu sau đây:
I wish I knew how to do it.
I wish I had known how to do it.
I wish I hadn’t gone.
I wish I didn’t have to go.
Câu thứ nhất có nghĩa là “I’m sorrry I don’t know how to do it” (Tôi rất tiếc là tôi không biết làm việc đó và tôi mong được biết – sự mong ước ở đây nói về thời hiện tại, và động từ trong mệnh đề phụ được dùng ở Past Tense)
Câu thứ nhì có nghĩa là “I didn’t know how to do it” (Tôi đã không biết làm việc ấy ra sao và tôi muốn phải chi tôi đã biết – điều mong ước ở đây là một điều đã không thực hiện được trong quá khứ và động từ đã được dùng ở thì Past Perfect)
Câu thứ ba có nghĩa là “I’m sorry I did go” (Tôi tiếc là tôi đã đi, và tôi muốn phải chi tôi đã không đi – điều mong muốn ở đây cũng là một điều đã không thực hiện trong quá khứ, và động từ cũng phải dùng ở thì Past Tense)
Thay vì động từ wish trong những câu thí dụ trên đây, người ta có thể dùng tiếng than (exclamatory) if only (phải chi):
If only I knew how to do it!
If only I had known how to do it!
If only the rain would stop now!
(Phải chi mưa tạnh ngay bây giờ!)
If only I could help.
(Phải chi tôi có thể giúp được anh)
Động từ wish có thể dùng với một túc từ gián tiếp và một túc từ trực tiếp:
He wished me a pleansant journey.
(Anh ta chúc tôi một cuộc du hành như ý)
They wished her success in her new career.
(Họ chúc cô ta thành công trong nghề nghiệp mới)
He wished me good night.
(Anh ta chúc tôi ngủ ngon)
I wish you all a merry Christmas and a happy New Year.
(Tôi chúc tất cả các bạn một ngày Giáng sinh vui vẻ và một năm mới hạnh phúc)
Wish cũng được dùng với một to-infinitive, nhưng trong trường hợp này, người ta thường dùng want hơn:
Where do you wish (want) me to go?
(Anh muốn tôi đi đâu?)
What do they wish (want) me to do?
(Họ muốn tôi làm gì?)
“What do you wish for?” said the genie to Aladdin.
(Vị thần hỏi Aladdin: “Ngươi ước gì?”)
She has everything that a woman could wish for.
(Cô ta có tất cả những gì mà một người đàn bà có thể mong ước).
Shall I hoặc Shall we thường được dùng để hỏi một người về những ước muốn của người đó hoặc để đề nghị làm một việc gì giúp người ta. Trong trường hợp này, Shall I cũng có nghĩa như “Do you want me to” hoặc “Would you like me to”. Thí dụ:
Shall I open the window?
(Anh có muốn tôi mở cửa sổ không?)
Shall I carry the box into the house for you?
(Anh có muốn tôi mang cái hộp nào vào nhà giùm anh không?)
Shall dùng với một danh từ hoặc đại danh từ thuộc ngôi thứ ba cũng là để hỏi ý muốn của người đối thoại với mình:
Shall the porter carry your bags upstairs?
(Ông có muốn người bồi mang hành lý của ông lên lầu?)
Shall the messenger wait?
(Ông có muốn người đưa thư chờ không?)
The hotel manager asked me whether the taxi should wait.
(Viên quản lý khách sạn hỏi tôi có muốn tắc xi chờ không?)
I should like hoặc I would like, thường được nói tắt là I’d like cũng được dùng để phát biểu sự ước muốn:
I’d like to be there (I wish I were there)
(Tôi mong được có mặt anh tại đó)
I’d like to have been there (I wish I had been there)
(Phải chi tôi đã có mặt tại đó)
Sau hết, đây là cách dùng động từ hope: động từ này có thể được dùng với một động từ vị biến có to (to-infinitive) một that-clause tức là một mệnh đề phụ bắt đầu bằng that, hoặc với giới từ for. Thí dụ:
I hope to hear from you soon.
(Tôi mong được nghe tin anh một ngày gần đây)
I hope that he has arrived safely.
(Tôi mong anh ta đã đến nơi bình an vô sự)
I am hoping for news of his safe arrival.
(Tôi đang mong tin anh ta đến nơi bình an vô sự)
Các bạn nên để ý là trong mệnh đề đứng sau động từ hope, động từ có thể được dùng ở Present Tense thay vì Future Tense mặc dù sự việc nói đến thuộc thời tương lai:
I hope he arrives safely.
(Tôi mong anh ta sẽ đến nơi bình an vô sự)
The time will come, I hope, when you have money.
(Tôi mong sẽ có ngày anh có tiền)
Ngàoi ra, động từ hope dùng ở thì Past Perfect trong một câu nói thuộc thời hiện tại có nghĩa là một điều hy vọng đã không thực hiện được trong quá khứ. Thí dụ: tôi có anh bạn bị đau nặng từ nhiều tháng nay: hôm nay tôi nghe tin anh ta đang trong tình trạng nguy kịch, mặc dù tuần trước tôi đang hy vọng là bệnh tình của anh ấy đã thuyên giảm. Và tôi nói:
I had hoped that he would soon be well again.